Bếp Hoàng Cầm xuất hiện trong khoảng thời gian của chiến dịch Hòa Bình (1951 – 1952) và nổi tiếng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là một loại bếp di động dùng trong tình huống chiến đấu, được sử dụng để giảm thiểu khói mù mịt từ nấu nướng, nhằm tránh sự phát hiện bởi máy bay từ trên cao hoặc từ xa gần. Bếp này có tên theo người tạo ra nó, anh nuôi Hoàng Cầm (1916 – 1996). Ông từng là tiểu đội trưởng phụ trách việc chăm sóc quân của Đội trưởng Đội điều trị 8 thuộc Sư đoàn 308 của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Với những ưu điểm của mình, bếp Hoàng Cầm đã trở nên rất phổ biến trong các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và trong những năm sau đó trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Hiện nay, công trình hầm bếp Hoàng Cầm vẫn có thể thấy tại khu vực địa đạo Củ Chi.
Tiểu sử anh nuôi Hoàng Cầm
Hoàng Cầm sinh năm 1916 tại xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Với hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông phải rời nhà để kiếm sống khi mới 20 tuổi. Sau năm 1936, ông bắt đầu học nghề đầu bếp và làm công việc thuê cho cửa hàng cơm Văn Phú tại phố Hàng Lọng (đường Lê Duẩn ngày nay).
Sau sự kiện Cách mạng tháng Tám, ông tham gia vào cuộc tự vệ thành. Năm 1947, ông được giao nhiệm vụ quản lý cấp dưỡng tại đường An Dưỡng trong khu vực Quân y Trung ương (Cục Quân y). Vào cuối năm 1948, ông được chuyển đến làm nhiệm vụ quản lý cấp dưỡng tại Quân y viện ở Mỹ Tranh.
Vào mùa thu đông năm 1949, trong thời kỳ Chiến dịch Biên giới, ông được giao trách nhiệm quản lý một đội cấp dưỡng tại một trạm vận chuyển thương binh ở Na Lang. Trong khuôn khổ Chiến dịch Hoàng Hoa Thám năm 1951, ông có đóng góp quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm tươi sống cho đơn vị, giữ cho giá cả hợp lý và cải thiện đời sống của bệnh binh, và vì những đóng góp này, ông được trao Huân chương Chiến công hạng ba.
Trong khoảng thời gian đông xuân 1951 – 1952, trong Chiến dịch Hòa Bình, do phải đảm nhận việc theo dõi chiến dịch của Sư đoàn 308, nhóm dịch vụ dưới sự quản lý của Hoàng Cầm phải chia thành 2 tổ, mỗi tổ phục vụ trung bình 60 người. Trong giai đoạn này, ông đã sáng chế ra bếp Hoàng Cầm, một thiết bị quan trọng đã nhanh chóng lan truyền và được sử dụng rộng rãi trong Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Vì thành tựu này, ông được tôn vinh là Chiến sĩ thi đua sư đoàn và được trao Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Sau khi Chiến tranh Đông Dương kết thúc, ông được trao huy hiệu chiến sĩ Điện Biên cùng với Huân chương Chiến thắng hạng Ba. Năm 1958, Hoàng Cầm tiếp tục tham gia vào các hoạt động quân sự. Ông tiếp tục phục vụ tại thị trấn Tam Đảo. Cuối cùng, sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, ông được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Hai.
Bếp Hoàng Cầm – huyền thoại ra đời từ Chiến dịch Hòa Bình
Hiện nay, bếp Hoàng Cầm vẫn được sử dụng bởi các đơn vị quân đội trong các hoạt động hành quân và dã ngoại. Trong hình ảnh, chúng ta có thể thấy việc sử dụng bếp Hoàng Cầm trong quá trình huấn luyện dã ngoại của cán bộ và chiến sỹ Bộ CHQS tỉnh. Trong cuộc tham gia các chiến dịch Hoàng Hoa Thám và Hòa Bình vào năm 1952, chiến sỹ Hoàng Cầm đã trực tiếp chứng kiến nhiều đồng đội bị thương và sức khỏe suy yếu, điều kiện ăn uống không đảm bảo. Tình hình chiến tranh trở nên càng khốc liệt, bộ đội không chỉ phải đối mặt với quân thù trên mặt trận chiến đấu mà còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thương vong khi ở phía sau, trong các khu nghỉ ngơi và sinh hoạt.
Nguyên nhân mất mát trong bộ đội một phần đến từ việc nấu ăn, vì việc đun nấu thường phải sử dụng lửa, gây sự chú ý vào ban đêm và tiết lộ vị trí, và vào ban ngày thì khói từ lửa nấu ăn dễ bị máy bay địch phát hiện và tấn công. Để đối phó với tình hình này, Hoàng Cầm đã nảy ra ý tưởng tạo ra một loại bếp có thể nấu ăn ban ngày mà không sợ bị phát hiện.
Sau nhiều ngày nghiên cứu và thử nghiệm, Hoàng Cầm đã tạo ra nhiều mẫu bếp khác nhau, với những thiết kế mang tính sáng tạo để che giấu khói và lửa. Cuối cùng, ông đã tạo ra một loại bếp có thiết kế lò khoét sâu vào lòng đất với đường dẫn khói dẫn đi xa và được lớp đất và cây che phủ. Loại bếp này cho phép bộ đội có thể nấu ăn mà không bị phát hiện, với khả năng kiểm soát khói và lửa tốt hơn.
Kiểu bếp Hoàng Cầm này sau đó đã được phổ biến trong quân đội, đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ và trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đó đã giúp bộ đội có cơm nóng và canh ngọt trong các điều kiện khắc nghiệt của chiến trường. Với sáng tạo này, bếp Hoàng Cầm đã trở thành biểu tượng quan trọng trong cuộc chiến đấu của quân và dân ta, góp phần đáng kể vào việc duy trì sức khỏe và tinh thần của bộ đội trong suốt chiến dịch kéo dài trong một thời gian dài.
Cấu tạo bếp Hoàng Cầm
Bếp Hoàng Cầm được thiết kế với nhiều đường rãnh để thoát khói, được kết nối với lò bếp. Phía trên các rãnh này, người ta đặt các cành cây và phủ lớp đất mỏng, được tưới nước để duy trì độ ẩm. Khi khói từ lò bếp bốc lên qua các đường rãnh, nó sẽ nhanh chóng tan chảy khi gặp hơi nước và rời khỏi mặt đất. Nhờ cơ chế này, bếp Hoàng Cầm có khả năng nấu ăn cả ban ngày và ban đêm mà không sợ khói lửa bộc lộ, thực hiện theo tinh thần “đi không dấu, nấu không khói…”.
Theo một số tài liệu ghi chép, người phát minh ra loại bếp này chính là Thượng sĩ Hoàng Cầm (1916 – 1996), người quê ở Nam Định và đồng thời là Tiểu đội trưởng chịu trách nhiệm nuôi quân trong Sư đoàn 308, Đại đoàn quân tiên phong. Trong bối cảnh chiến tranh, việc nấu ăn giữa rừng gặp rất nhiều khó khăn: ban ngày, khói bốc lên làm tiết lộ vị trí, còn ban đêm, lửa lại tiết lộ sự hiện diện, dễ bị địch phát hiện. Tình trạng này khiến người anh nuôi của Hoàng Cầm trở nên rất lo lắng.
Sau nhiều lần suy nghĩ, vẽ sơ đồ và thử nghiệm, Thượng sĩ Hoàng Cầm đã tạo ra một loại bếp độc đáo. Đó là loại bếp lò được khoét sâu vào sườn đồi hoặc đào xuống đất với nhiều đường rãnh giống như râu mực màu đen. Trên các rãnh này, cành cây được lát và đất được phủ ẩm, tạo thành các ống thoát khói. Khi nấu ăn, khói từ bếp sẽ trải qua các đường rãnh này, bị lọc và giữ lại do đất ẩm, khiến nó không bốc lên mà chỉ lan tỏa như làn sương. Nhờ cơ chế này, loại bếp này đã giải quyết vấn đề nấu ăn giữa rừng mà không bị phát hiện bởi quân địch.
Từ đó, loại bếp này được đặt tên theo người sáng tạo – bếp Hoàng Cầm. Nó xuất hiện lần đầu trong cuộc chiến dịch Hòa Bình (1951-1952) và nhanh chóng trở nên phổ biến trong cuộc chiến dịch Điện Biên Phủ. Có thể nói, đây là một phát minh có tính sáng tạo và ứng dụng cao, góp phần quan trọng trong việc cải thiện điều kiện nấu ăn cho bộ đội trong môi trường chiến đấu khắc nghiệt.



Hệ thống thoát khói trong bếp Hoàng Cầm có tác dụng quan trọng trong việc cải thiện hiệu suất đốt cháy và hướng dẫn khói ra ngoài để tạo thành một làn khói mỏng thoảng qua. Hệ thống thoát khói này bao gồm ba bộ phận chính: hầm chứa khói, rãnh dẫn khói và tia tản khói.
- Rãnh dẫn khói: Được thiết kế với tiết diện là 30 x 30 cm và chiều dài từ ổng khói đến hầm chứa khói thứ nhất từ 2,5 đến 3 mét. Rãnh này thường được đặt thẳng đứng và cân đối với chiều dài của bệ bếp, hướng thoải vươn lên. Góc vươn tốt nhất là 30 độ.
- Hầm chứa khói: Rãnh dẫn khói chảy vào hai hầm chứa khói. Hầm thứ nhất có kích thước 0,80 x 0,80 x 0,80 mét. Hầm thứ hai cách xa hầm thứ nhất 3 mét và có kích thước 1,0 x 1,0 x 1,0 mét.
- Tia tản khói: Các tia tản khói xuất phát từ hầm chứa khói thứ hai. Mỗi bếp thường có 3 tia tản khói, với tiết diện là 20 x 20 cm hoặc 25 x 25 cm, chiều dài ít nhất là 7 mét. Đầu của các tia tản khói thường được ẩn vào trong bụi rậm hoặc lùm cây để che giấu.
- Cây và cành để lót và lấp đất: Phần phía trên hệ thống thoát khói được lát bằng cây và que tươi, sau đó được phủ bởi một lớp lá tươi và cuối cùng là một lớp đất tơi xốp. Mục đích của việc này là để tạo ra một cơ chế để khói thoát ra thành một làn khói mỏng, thoảng qua.
Tóm lại, hệ thống thoát khói của bếp Hoàng Cầm được thiết kế thông minh để tạo ra hiệu quả đốt cháy tốt nhất và đồng thời định hướng khói thoát ra ngoài một cách tinh tế, tạo thành một làn khói mỏng nhằm giảm thiểu khả năng bị phát hiện.
- Mái che và lợp bếp: Mục tiêu của việc này là để bảo vệ ánh lửa và đảm bảo khả năng đun nấu trong mọi điều kiện thời tiết. Để thực hiện điều này, người ta có thể sử dụng tăng bạt có khung làm từ tre, nứa hoặc cây gỗ nhỏ để che kín bếp. Cũng có thể sử dụng tre và lá nứa để lợp mái. Trong việc thiết kế, điều quan trọng là đảm bảo rằng ban đêm không có ánh sáng bên trong bếp tỏ ra ra ngoài, đồng thời người sử dụng cũng dễ dàng vào ra.
- Rãnh thoát nước: Một yếu tố quan trọng khác trong thiết kế bếp Hoàng Cầm là hệ thống rãnh thoát nước. Đây là để ngăn chặn nước tràn vào bếp khi trời mưa. Để thực hiện điều này, người ta cần đào xung quanh bếp một hệ thống rãnh thoát nước để dẫn nước chảy ra ngoài, đặc biệt là khi đào bếp trên sườn đồi. Tại các vị trí như sườn đồi, cần đắp bờ cao và vững chắc để giữ cho nước không tràn vào bếp và gây ngập lụt hoặc hỏng bếp.
Bếp Hoàng Cầm trong văn thơ
Hình ảnh của bếp Hoàng Cầm đã thể hiện trong thơ ca kháng chiến, đặc biệt nổi bật trong tác phẩm của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trong bài thơ mang tựa đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính,” Phạm Tiến Duật đã mô tả về bộ đội trong những năm tháng chống Mỹ, và trong đó, bếp Hoàng Cầm được anh miêu tả:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy…”
“Bếp Hoàng Cầm ta sưởi ấm khắp nơi nơi…”
(Nổi lửa lên em).
Trong những câu thơ này, Phạm Tiến Duật đã tạo ra hình ảnh sâu sắc và cảm động về tình thần đoàn kết, tương thân tương ái của bộ đội trong kháng chiến. Bếp Hoàng Cầm không chỉ là nơi nấu ăn, mà còn là biểu tượng của lòng hiệp thông, tình cảm gia đình trong bộ đội, nơi nào cảm xúc và sự gắn kết với nhau được thể hiện qua bữa cơm chung.
Lời kết
Trên đây, Nội Thất Smart đã chia sẻ đến bạn nội dung chi tiết về Bếp Hoàng Cầm không khói khi nấu. Mong rằng bạn đã nhận được thông tin hữu ích từ bài viết này.