9 chữ bùa trong kinh cứu khổ
9 chữ bùa trong kinh cứu khổ

9 chữ bùa trong kinh cứu khổ đã được giải đáp trong bài viết này. Mời bạn tìm hiểu chi tiết.

9 chữ bùa trong kinh cứu khổ

Kinh Cứu Khổ, hay còn được gọi là Kinh Phát Đà, chứa trong mình chín chữ bùa quý báu, được coi là những biểu tượng tinh thần quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong tôn giáo Phật giáo. Những chữ bùa này không chỉ đại diện cho sự tôn kính đối với các vị thánh trong Phật giáo mà còn mang theo những hướng dẫn quý báu về cuộc sống đạo đức và con đường tìm kiếm giải thoát khỏi đau khổ.

Dưới đây là mô tả của 9 chữ bùa trong Kinh Cứu Khổ và ý nghĩa của chúng:

  1. Om (Aum): Đây là biểu tượng của sự tồn tại tối thượng, thể hiện sự đoàn kết và sự hiện diện của tất cả mọi thứ. Om đại diện cho sự bình an và đầu thai.
  2. Ma (Mā): Chữ này đại diện cho sự biết thức và sự thay đổi. Nó nhắc nhở chúng ta về sự tạp niệm và sự luân phiên trong cuộc đời.
  3. Ni (Nī): Chữ này biểu thị sự đổ đếm và sự phân biệt. Nó nhắc nhở chúng ta về sự tình yêu và lòng khoan dung.
  4. Pad (Pād): Đại diện cho sự phát triển và tiến bộ. Pad khuyến khích chúng ta phát triển tâm hồn và nâng cao tri thức của mình.
  5. Me (Me): Biểu tượng của sự vô minh và bất biến. Me nhắc nhở chúng ta về sự không thay đổi của bản thân tinh thần.
  6. Hum (Hūm): Chữ này thể hiện sự không gian và sự bao la. Hum đại diện cho sự phóng túng và mở rộng tâm hồn.
  7. Phat (Phaṭ): Được hiểu là chữ của sức mạnh và khả năng phá vỡ mọi ràng buộc. Phat giúp chúng ta vượt qua sự ràng buộc và đối mặt với thử thách.
  8. Da (Dā): Chữ này đại diện cho sự kiên nhẫn và lòng can đảm. Da khuyến khích chúng ta kiên nhẫn trong việc thực hành và không sợ đối mặt với khó khăn.
  9. Điều ấn (Kṣaṇa): Đây là chữ cuối cùng, biểu thị sự tịnh tâm và khoan dung. Nó nhắc nhở chúng ta về sự thoát khỏi thời gian và không gian, đạt được tình thần tĩnh lặng và hiểu biết sâu sắc.

Những chữ bùa này trong Kinh Cứu Khổ đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con người trên con đường tìm kiếm giải thoát và sự an lạc trong tâm hồn trong tôn giáo Phật giáo. Chúng không chỉ là những biểu tượng mà còn mang theo thông điệp đạo đức và lý thuyết về cuộc sống đúng đắn.

9 Chữ Bùa trong kinh cứu khổ Quan Âm Và Phẩm Phổ Môn, 9 Chữ Bùa Quan Âm

Kinh này tượng trưng cho tinh thần cứu khổ của bồ tát Quán Thế Âm, thể hiện qua tâm hồn đầy lòng từ bi, tâm tịnh đẳng, tâm tập trung vào bản chất của mọi vật, tâm chấp nhận và định hướng tích cực, tâm tôn kính và tạo dựng, tâm dấn thân vào việc cứu độ, tâm tuân thủ các quy tắc đạo đức, tâm từ bỏ ác để làm lành, tâm giải thoát khỏi những lo âu và phiền muộn…

BẠCH Y QUÁN THẾ ÂM ĐẠI SĨ LINH CẢM THẦN CHÚ

Nam mô Đại Từ đại Bi cứu khổ cứu nạn Quảng ĐạiLinh Cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát.

(đọc 3 lần)

Nam mô Phật, Nam môPháp, Nam mô Tăng. Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Đát chỉ đá án dàla phạt đá, đà la phạt đá, sa ha, thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạnly thân, nhất thiết tai ương hóa vị thần.

(Kinh này đọc 3 biến 3 lạy)

KINHCỨU KHỔ

BẠCH Y THẦN CHÚ

I/.KINH VĂN:

Nam mô Đại Từ, đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát.

(đọc 3 lần)

Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa sốPhật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứungục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ.

Nhược hữu nhơn tụng đắc nhất thiên biến nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạnbiến, nhứt hiệp gia ly khổ nạn.

Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, xử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắcđộ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện BồTát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu, chưĐại Bồ Tát, ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử ..…………………………. cùng ……………… nhứt thânly khổ nạn, tự ngôn Quan Thế Âm. Anh lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biếntai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành. Tức thuyết, Chơn ngônviết: Kim Bà Kim Bà Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà La Ni Đế, Ni Ha La Đế, Tì Lê NiĐế, Ma Ha Đà Đế, Chơn Lăng Càng Đế, Ta Bà Ha.

(Kinh này đọc 3 biến 3 lạy)

II/. VIẾT RA CHỮ HÁN:

救苦經

南無大慈大悲廣大靈光世音菩薩

南無救苦,救難觀世音菩薩,百千萬億佛,恆河沙數佛,無量功德佛,佛告阿難言,此經大聖,能救獄囚,能救重病,能救三災百難苦.

若有人誦得一千遍,一身離苦難,誦得一萬遍,合家離苦難.

南無佛力威,南無佛力護,使人無惡心,令人身得度,迴光菩薩,迴善菩薩,阿耨大天王正殿菩薩,摩丘摩丘清淨毘丘,官事得散,訟事得休,諸大菩薩,五百阿羅漢救護弟子…………………..一身離苦難,自言觀世音,瓔珞不修解,勤讀千萬遍災難自然得解脫,信受奉行即說,真言曰:

金婆金婆帝,求訶求訶帝,多羅尼帝,尼訶羅帝,毘黎尼帝,摩訶伽帝,真陵乾帝,娑婆訶.

KINH QUÁN THẾ ÂM BỒTÁT CỨU KHỔQuảng Minh (Tu Viện Huệ Quang)

Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển 1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ. Phương đẳng bộ là các kinh đại thừa ngoài bốn bộ: Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn. Trong Phương đẳng bộ chia làm hai bộ chính là Bảo Tích và Đại Tập. Nếu phân loại theo hiển mật thì kinh này thuộc Phương đẳng mật chú bộ, vì có thần chú Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ, gọi tắt là thần chú Cứu khổ.

Chánh văn:

觀世音菩薩救苦經

南無救苦觀世音菩薩。百千萬億佛。恒河沙數佛。無量功德佛。佛告阿難言。此

經大聖。能救獄囚。能救重病。能救千災百難苦。若有人。誦得一千遍。一身離苦難

。誦得一萬遍。合家離苦難。南無佛力威。南無佛力護。使人無惡心。令人身得度。

回光菩薩。回善菩薩。阿耨大天王。正殿菩薩。摩邱摩邱。清淨比邱。官事得散。私

事得休。諸大菩薩。五百羅漢。救護弟子身。悉皆離苦難。自然觀世音。纓絡不須解

。勤誦千萬遍。災難自然得解脫。信受奉行。即說真言曰。

今菩今菩提 陀羅尼帝 尼佉羅帝 菩提薩婆訶

Dịch âm:

Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Kinh

Nam mô cứu khổ Quan Thế Âm bồ tát, bách thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn,thử kinh đại thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu thiên tai bách nạn khổ. Nhược hữu nhân, tụng đắc nhất thiên biến, nhất thân ly khổ nạn,tụng đắc nhất vạn biến, hợp gia ly khổ nạn. Nam mô Phật lực uy, nam mô Phật lực hộ, sử nhân vô ác tâm, linh nhân thân đắc độ. Hồi Quang bồ tát, Hồi Thiện bồ tát, A Nậu đại thiên vương, Chánh Điện bồ tát, ma kheo ma kheo, thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán, tư sự đắc hưu. Chư đại bồ tát, ngũ bách la hán, cứu hộ đệ tử thân, tất giai ly khổ nạn. Tự nhiên Quan Thế Âm, anh lạc bất tu giải, cần tụng thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải. Tín thọ phụng hành, tức thuyết chân ngôn viết: Kim bồ kim bồ đề, đà la ni đế, ni khư la đế, bồ đề tát bà ha.

Nghĩa dịch: Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm Cứu Khổ

Kính lạy bồ tát Quán Thế Âm, vị đại sĩ cứu khổ, kính lạy vạn ức đức Phật, ngàn dạng hoàn hà sa số đức Phật, vô số bậc toàn giác với công đức vô hạn.

Đức Phật từng dạy A Nan rằng: “Kinh này vô cùng cao quý, có thể giải thoát khỏi ngục tù, có thể chữa lành bệnh tật nặng nề, có thể cứu vớt khỏi hàng trăm tai nạn và ngàn khổ ách. Nếu ai tụng kinh này một ngàn lần, thì họ sẽ giải thoát khỏi khổ nạn; tụng một triệu lần, thì cả gia đình sẽ được giải thoát khỏi khổ nạn.”

Quay về tìm sự nương tựa vào sức mạnh thần thánh của Phật, tìm sự nương tựa vào sự bảo vệ của Phật, để tất cả chúng ta không có tâm hướng xấu xa. Làm cho tất cả chúng ta và cả bản thân chúng ta đều được cứu độ bởi Phật. Tìm sự nương tựa vào bồ tát Hồi Quang, bồ tát Hồi Thiện, đại thiên vương A Nậu, bồ tát Chánh Điện, những bậc tỳ kheo tinh khiết, thức tử và hủy ác. Khi đó, các cửa quan ác hại được đóng lại, những việc ác không thể tiếp tục.

Chúng con cầu nguyện đến các vị đại bồ tát, đến năm trăm vị la hán để cứu độ bản thân và mọi người khỏi khổ nạn. Tương tự như việc thả lỏng chuỗi ngọc của bồ tát Quán Thế Âm, những người chăm chỉ tụng kinh này ngàn và triệu lần sẽ tự nhiên được giải thoát, thoát khỏi các khó khăn.

Đại chúng lắng nghe lời dạy của Phật, tin tưởng, chấp nhận và tuân thủ. Bồ tát Quán Thế Âm sẽ đáp lại bằng thần chú: Kim bồ kim bồ đề, đà la ni đế, ni khư la đế, bồ đề tát bà ha.

Lược ghi:

Nam mô (Namah/Namaha) là phiên âm tiếng Phạn,nghĩa là kính lễ, kính lạy, xin thành kính đến, quay về nương tựa (qui y). Đâylà lời của chúng sanh hướng về Phật, bồ tát, giáo pháp, thánh hiền tăng mà thốtlên lời thật long qui y, tín thuận.

Bồ tát Quán Thế Âm (AvalokitesvaraBodhisattva) là vị đại sĩ quán sát, lắng nghe âm thanh của cuộc đời, “soi thấybằng ngàn mắt và nắm giữ bằng ngàn tay”, sẵn sàng cứu khổ chúng sanh: “ngàn nơicầu nguyện ngàn nơi ứng, biển khổ thuyền dong cứu độ người”. Bồ tát Quan Thế Âmxuất hiện rất nhiều trong hầu hết kinh điển đại thừa, ngài tượng trưng cho đứctánh từ bi (karuna) qua thần lực cứu độ chúng sanh đang đau khổ và phương tiệnlực dẫn dắt chúng sanh đi đến giải thoát.

Thánh (arya) là khái niệm đối lập với phàmtục. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trương đả phá bốn giai cấp đương thời (sát đếlợi, bà la môn, phệ xá và thủ đà la), vì thế những người gia nhập tăng đoàn làThích tử bình đẳng, không y cứ vào gia thế, tư cách, tài sản, lấy chánh đạo làmthánh. Người tìm cầu và thực hành chánh đạo đều gọi là thánh. Sự xuất gia cầuđạo của đức Phật Thích Ca gọi là thánh cầu. Bát chánh đạo còn gọi là bát thánhđạo, tức tám con đường thánh đưa đến niết bàn. Tứ diệu đế, bốn chân lý chắcthật, còn gọi là tứ thánh đế, bốn chân lý của bậc thánh. Chữ thánh trong kinhnày hiểu là chân chánh, vi diệu, mầu nhiệm, cao cả.

Bồ tát (Bodhisattva) gọi đủ là bồ đề tát đỏa,chỉ cho người tu hành mà trên thì cầu thành Phật bằng trí tuệ, dưới thì hóa độchúng sanh bằng từ bi, là người có đủ hai hạnh: lợi ình lợi người và dũng mãnhcầu Phật quả. Bồ tát Hồi Quang là bồ tát Soi chiếu lại tâm mình. Bồ tát HồiThiện là bồ tát Trở về tánh thiện vốn có của mình.

Đại thiên vương A Nậu, còn gọi là A Nậu QuanÂm, tức một trong 33 ứng thân của bồ tát Quan Thế âm, là hình tượng vị bồ tátngồi trên gộp đá nhìn ra biển. Như kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn ghi: “Hoặc trôidạt biển lớn, các nạn dữ cá rồng, do sức niệm Quan Âm, sóng không thể nhậnchìm”. Vì biển cả và cá rồng có nhân duyên với ao A nậu đạt nên bồ tát Quan Âmmới có danh xưng như vậy.

Bồ tát Chánh Điện là bồ tát Cung điện củachánh pháp, lấy ý nghĩa bản thân là cung điện phụng thờ chánh pháp của Phật.

Tỳ kheo (bí sô), tiếng Phạn là bhiksu, cónghĩa là thành tựu trọn vẹn, Trung Hoa dịch là cận viên (gần tới viên tịch:niết bàn) hay bước lên chỗ cao (upasampada). Tỳ kheo là vị được tôn cao trongcác chúng khác (chúng trung tôn), làvị cụ túc giới pháp (250 giới điều) và oainghi (không có những cử động bất xứng). Theo luận Đại trí độ, tỳ kheo có 5nghĩa: khất sĩ, phá phiền não (phá ác), ra khỏi nhà thế tục (xuất gia), trìgiới thanh tịnh và làm ma quân sợ hãi (bố ma). Trong đó, phá ác, bố ma và khấtsĩ được gọi là tỳ kheo tam nghĩa. Ma kheo, ma kheo, thanh tịnh tỳ kheo đượcdịch là các bậc tỳ kheo thanh tịnh, bố ma và phá ác. Thanh tịnh tỳ kheo là tỳkheo giữ giới thanh tịnh. Ma kheo trước là tỳ kheo bố ma. Ma kheo sau là tỳkheo phá ác. Ác là phiền não, mà phiền não cũng thuộc ma quân, tức mọi sự ácnghiệt, trở ngại và phá hoại Phật, Phật pháp và người hành trì Phật pháp.

Ngũ bách la hán là 500 vị a la hán, tức chỉcho 500 vị thanh văn đã chứng quả vô học. Trong bốn quả thánh: tu đà hoàn(sotapatti), tu đà hàm (sakadagami), a na hàm (anagami) và a la hán (arahanta),thì từ quả a na hàm trở xuống gọi là bậc hữu học vì chưa được giải thoát hoàntoàn, còn phải học tập, trong khi quả a la hán đã được giải thoát hoàn toàn,không còn phải học nữa nên gọi là bậc vô học. Ngũ bách la hán được nhắc đếntrong kinh Phật ngũ bách đệ tử tự thuyết bản khởi và kinh Pháp hoa: phẩm Ngũbách đệ tử thọ ký. Sau khi đức Phật diệt độ, tôn giả Đại Ca Diếp từng cùng với500 vị la hán kết tập pháp tạng ở thành Vương Xá. Ở Trung Hoa, việc sùng bái500 vị la hán rất thịnh hành. Hiện nay, ở Việt Nam, chùa Bái Đính – Ninh Bìnhvà chùa Minh Thành – Pleiku có tôn tạo và thờ phụng 500 vị la hán.

Anh lạc (keyura) xuất từ tiếng Phạn, chỉ choxâu chuỗi ngọc qúy mà người nam, người nữ qúy tộc Ấn độ ngày xưa thường đeomang làm trang sức. Chữ anh (纓) trong chánh văn có bộ mịch, đôi khi đồngnghĩa với chữ anh (瓔) có bộ ngọc. Vì là dịch âm nên dùng chữ anh có bộ mịch hay bộngọc đều được cả, tuy nhiên người ta quen dùng chữ anh có bộ ngọc hơn. Trongđạo Phật, chuỗi anh lạc được ví như giới luật để trang nghiêm pháp thân. Sựkiện chuỗi anh lạc của bồ tát Quan Thế Âm phân ra là theo phẩm Phổ Môn trongkinh Pháp Hoa: Sau khi nghe đức Phật tán thán thần lực và phương tiện lực củabồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Vô Tận Ý liền “cởi xâu chuỗi anh lạc bằng các thứchâu báu đeo nơi cổ, giá trị bằng trăm ngàn lượng vàng mà dâng cúng cho bồ tátQuan Thế Âm”. Bồ tát Quan Thế Âm nhận rồi phân ra làm hai phần, một phần hiếncúng đức Phật Thích Ca và một phần hiến cúng tháp Phật Đa Bảo. Với thần lực củabồ tát Quan Thế Âm thì sự phân chia chuỗi ngọc không có chút gì nhọc công, cầmtrên tay một xâu, tự nhiên biến thành hai xâu ngắn hơn. Người trì tụng kinh CứuKhổ hay thần chú Cứu Khổ sẽ dược thoát khỏi khổ nạn một cách tự nhiên, đó khôngphải là nhờ thần lực gia hộ của bồ tát Quan Thế Âm hay sao?

Biên dịch:

Kinh này có thể viết lại làm hai phần như saucho dễ hiểu:

Kinh văn:

Đức Phật dạy tôn giả A Nan rằng: “Kinh này rấtlà cao cả, có thể cứu thoát ngục tù, có thể cứu chữa bịnh nặng, có thể cứu vớttrăm tai nạn ngàn khổ ách. Nếu có người tụng kinh này được một ngàn lần thì bảnthân lìa khổ nạn, tụng được một muôn lần thì cả nhà lìa khổ nạn. Như xâu chuỗianh lạc của bồ tát Quán Thế Âm tự nhiên phân rời ra, người nào siêng năng tụngngàn muôn lần (kinh này) thì các tai nạn tự nhiên được cởi bỏ, thoát khỏi”.

Đại chúng nghe lời Phật dạy, tin tưởng, tiếpnhận và vâng làm, bồ tát Quan Thế Âm liền nói thần chú rằng: Kim bồ kim bồ đề,đà la ni đế, ni khư la đế, bồ đề tát bà ha.

Phát nguyện:

Kính lạy bồ tát Quan Thế Âm, bậc đại sĩ cứukhổ.

Kính lạy trăm ngàn muôn ức đức Phật, hằng hàsa số đức Phật, những bậc toàn giác có vô lượng công đức.

Con xin quay về nương tựa sức oai thần củaPhật, quay về nương tựa sức gia hộ của Phật, khiến cho mọi người không sanh tâmác độc, làm cho mọi người và bản thân được Phật cứu độ.

Con xin quay về nương tựa bồ tát Hồi Quang, bồtát Hồi Thiện, đại thiên vương A Nậu, bồ tát Chánh Điện, các bậc tỳ kheo thanhtịnh, bố ma và phá ác, thì việc cửa quan được cởi bỏ, việc không chánh đángđược ngưng dứt. Cúi xin chư vị đại bồ tát, năm trăm vị la hán cứu hộ bản thânđệ tử (và thân nhân/ mọi người/ chúng sanh) thảy đều lìa khổ nạn.

Tướng dụng:

Phật nói kinh này cũng tức là thần chú Cứukhổ, rất là cao cả, nhiệm mầu, linh ứng, người trì tụng kinh này, thần chú nàythì tai qua nạn khỏi, hết bịnh, ra khỏi ngục tù thế gian và ngục tù phiền não,thoát nạn cửa quan và phiền toái, bản thân và gia đình bình an, người khôngsanh ác tâm, hóa giải hận thù, như ý, như nguyện.

Biểu tượng của kinh này là sự cứu khổ của bồtát Quán Thế Âm, biểu hiện qua tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm hướng về chântâm, tâm hướng thiện, tâm cung kính, tâm cứu độ, tâm giữ giới, tâm bỏ ác làmlành, tâm rủ bỏ phiền não, tâm tin tưởng mãnh liệt vào sự cứu độ của Phật, bồtát, la hán. Trì kinh chú này thì phải hành theo biểu tượng như vậy.

Hành pháp:

Trì chú Cứu khổ ít nhiều đều được, cố nhiêncàng nhiều càng tốt, như kinh nói một ngàn biến, một muôn biến, một ngàn muônbiến. Muốn trì chú này thì trước phải tụng đọc kinh văn và phát nguyện như trênđã nói, sau đó trì chú theo khả năng và thì giờ của mỗi người, cần nhất là phảisống theo tinh thần biểu tượng của kinh này.

Lời kết:

Phần hồi hướng của kinh Ngũ bách danh Quán Thế Âm có bài kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ. Kinh Ngũ bách danh Quán Thế Âm có thể xuất hiện trước thời của thiền sư Chuyết Chuyết (1590 – 1644), tức trước thế kỷ 16, như vậy kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ cũng xuất hiện khá lâu. Điều đáng nói là thần chú Cứu khổ trong chánh văn, không biết vì lý do nào, được đổi thành thần chú Thất Phật diệt tội. Thần chú Cứu khổ là: “Kim bồ kim bồ đề, đàla ni đế, ni khư la đế, bồ đề tát bà ha”, bị sửa lại là: “Kim bà kim bà đế(đúng phải là ly bà ly bà đế), cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha”. Thần chú Thất Phật diệt tội, trích từ kinh Đại phương quảng đà la ni, là thần chú của bảy đức Phật trong quá khứ đã nói ra cho các tỳ kheo, tỳ kheo ni phạm tội tứ trọng, ngũ nghịch có thể sám hối, dứt tội, được phước. Có lẽ vì chánh văn là “kim bồ kim bồ đế” gần giống với “ly bà ly bà đế” nên ráp nối phần sau, giữ nguyên câu trước có sửa đổi thành “kim bà kim bà đế”.

Kinh Quán Thế Âm cứu khổ là kinh tụng hằng ngày của Phật giáo Hào Hảo. Mẹ tôi lúc còn nhỏ đã được ông ngoại dạy cho bài kinh này, bảo học thuộc và trì tụng. Nghe mẹ tôi kể, lúc pháo rơi đạn lạc thời chiến tranh, tại ngoại ô thành phố Huế, một căn nhà hàng xóm thoát nạn pháo kích vì trong nhà có người trì tụng kinh này. Có câu là “phàm có cảm thì đều thông, nên cầu gì mà chẳng ứng”, khi gặp bất cứ hoạn nạn, khổ đau nào chúng ta có thể thầm niệm ngắn gọn, như một câu thần chú, như sau:Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng già da, nam mô Quan Thế Âm bồ tát ma ha tát, dịch bịnh tiêu trừ(có thể đổi lời cầu xin),ta bà ha. Đây là trích trong kinh Phật thuyết đoạn ôn (Tục tạng, quyển 1, số 19), kinh kể về việc thành Vương Xá bị ôn dịch, người chết vô số, tôn giả A Nan thỉnh Phật dạy phương pháp cứu tế, đức Phật dạy đọc lời nguyện như trên, thế là ôn dịch đẩy lui.

Con về nương tựa Phật, bậc giác ngộ đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thươngvà hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, chúng nguyện sống một cuộc đời ly nhiễm và tỉnh thức.

Con về nương tựa bồ tát Quan Thế Âm, vị đại sĩ nắm giữ con bằng ngàn tay, soi thấy con bằng ngàn mắt, làm cho con bặt hết yếu tố tội ác, làm cho con phát khởi và thực hành hạnh từ bi.

Con tên là_____, pháp danh _____, cầu cho bảnthân, thân nhân, chúng sanh, tất cả cùng được ______, ta bà ha.

Ngưỡng nguyện đức đại bi Quan Thế Âm cùng PhậtPháp Tăng, vô thượng Tam bảo, mật thùy chứng minh gia hộ.

Xin tin tưởng và cầu nguyện theo biểu tượngcủa kinh văn mà đức Phật đã nói.

Sáng niệm Quán Thế Âm, chiều niệm Quán Thế Âm,niệm niệm theo tâm khởi, niệm Phật chẳng rời tâm.

Tìm hiểu chung về 9 chữ bùa trong kinh cứu khổ quan âm

9 chữ “bùa quan âm” là một khía cạnh phổ biến và quen thuộc đối với những người quan tâm, tìm hiểu và tuân theo đạo Phật. Hãy cùng nhau khám phá cách Phật giáo hiểu về nội dung này và đi sâu hơn vào chủ đề này!

1. Quan điểm của Phật giáo về bùa chú

Trước khi khám phá về 9 chữ “bùa phật mẹ quan âm”, chúng ta cần tìm hiểu quan điểm của Phật giáo về việc sử dụng bùa chú. Đối với Phật giáo, không có bất kỳ sự ràng buộc từ bất kỳ tôn giáo nào, và hoàn toàn không tồn tại khái niệm áp đặt hay khuyến khích tín đồ, người tu hành hay người tu tập đặt niềm tin mù quáng vào một hình thức tôn giáo độc quyền. Trong tinh thần của đạo Phật, điều quan trọng là đảm bảo tính khai sáng và lưu giữ tinh thần truyền thống.

Đem đến điều tốt lành và lợi ích chung.

Khi sử dụng các bùa ngải, cần đảm bảo rằng chúng mang lại những điều tốt, thiện ích và tích cực cho con người. Đặc biệt, những người tu hành đích thực không nên phê phán người khác hoặc sử dụng tâm lý tự mãn để khen ngợi bản thân mình, vì điều này có thể đem lại kết quả không tốt và mang họa đến sau này.

Trước nhiều cám dỗ và việc lợi dụng tâm hồn của nhiều người hướng về tôn giáo, việc thận trọng đối với các vấn đề liên quan đến bùa ngải và bùa chú trở nên vô cùng quan trọng. Điều này đảm bảo rằng sự tin tưởng và tâm hồn của mọi người được bảo vệ và không bị lợi dụng.

Nếu bạn muốn hiểu thêm về ý nghĩa của 9 chữ “bùa quan âm”, hãy cùng xem thêm thông tin bên dưới!

2. Tìm hiểu về 9 chữ bùa quan âm

2.1 Ý nghĩa của 9 chữ bùa quan âm

Om Mani Pémé Hung là một trong những câu thần chú, 9 chữ bùa của quan âm, biểu thị sự ân sủng và lòng từ bi vô ngần của tất cả các bồ tát và chư Phật, đặc biệt là sự ân sủng của vị Quán Tự Tại/ Quán thế âm – biểu tượng của tình thương và lòng từ bi vô bờ bến.

Tâm đại bi của mọi bồ tát

Nhận thức tôn giáo đã chỉ ra rằng, mỗi âm trong câu thần chú 9 chữ bùa quan âm mang theo một hiệu quả đặc biệt, có khả năng thấm sâu vào nhiều tầng khác nhau của cuộc sống. Những âm này giúp biến đổi tâm thức, giải quyết phiền não và chuyển hóa những biểu hiện của sự bất minh. Chúng giúp làm dịu bớt những cảm xúc tiêu cực như ngu si, ganh tị, kiêu căng và giận dữ, từ đó tâm hồn được giác ngộ và quay trở lại với bản chất thực sự của chúng ta.

Hơn nữa, nhiều người cảm thấy rằng 9 chữ bùa quan âm có khả năng che chở và bảo vệ, giữ chúng ta trước những nguy cơ bệnh tật cũng như ảnh hưởng tiêu cực và xấu xa. Chúng tạo nên một tầng vệ sĩ tinh thần, giúp chúng ta tránh xa những thảm họa và lưu giữ sự an lành.

2.2 Cách giải thích khác

Một cách diễn giải khác về 9 chữ bùa quan âm là đặc điểm của các từ lần lượt là: thân giác ngộ – ngữ giác ngộ – ý giác ngộ. Tóm lại, ý nghĩa cơ bản là sự chứa đựng của thân, ngữ và ý đều hiện hữu trong câu thần chú này theo tinh thần của tất cả các vị Phật. Câu này mang ý nghĩa tạo điều kiện để tịnh hóa mọi chướng ngại từ thân, ngữ và ý, đặc biệt khi chúng ta tụng kinh và niệm kinh cùng với lòng tin, chúng ta có khả năng tịnh hóa bản thân.

Tạo nên trong tâm hồn chúng ta một cảm giác yên bình và thanh thản.

Với 9 chữ bùa quan âm, những người quen thuộc với tấm lòng tận tâm và niềm tin vững chắc cảm nhận chúng như âm thanh tinh khiết, mầu nhiệm của bậc mẹ quan âm. Âm thanh tinh khiết của những chữ bùa này mang đến sự bình an, và mọi tiếng đau khổ và lời van xin đều được mẹ quan âm lắng nghe và giải thoát, mang lại trong tâm hồn chúng ta cảm giác thanh tịnh và an yên vô cùng.

Với tâm hồn trong sáng và chân thành, luôn hướng về Phật và nhờ vào 9 chữ bùa quan âm, mọi nỗi lo âu và chia sẻ của chúng ta đều được lắng nghe và cứu giúp. Chúng thể hiện sự phù hộ cho gia đình và thực hiện mọi ước mơ. Bài viết này mong muốn cung cấp cái nhìn tổng quát về ý nghĩa của câu thần chú này. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với chúng tôi để biết thêm thông tin!

.VÒNG TRÒN CHÍNH GIỮA LÀ CHÚ CHUẨN ĐỀ ( CHỮ CỔ PHẠN ).

.9 CHỮ HOA CUỐI CÙNG LÀ ” 9 CHỮA BÙA QUAN ÂM “, MÀ MỌI NGƯỜI THƯỜNG GỌI; NẰM Ở TRONG ” KINH BẠCH Y CỨU KHỔ ” NGÀY XƯA ( TÔI CÓ HỎI THẦY TUẤN ( HUYỀN CHÂN TỬ ) TÁC GIẢ QUYỂN KINH ÔNG TÁO, THÌ THẦY TRẢ LỜI: ” 9 CHỮA BÙA ” NÀY NẰM TRONG ” KINH MINH THÁNH ” CỦA ĐỨC QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN. / TÔI CÓ ĐEM ” 9 CHỮA BÙA ” NÀY, NHỜ SƯ ĐỆ TÔI, NHỜ VỊ THẦY CHUYÊN PHIÊN DỊCH KINH HOA VĂN, THÌ THẦY NÓI ” 9 CHỮA BÙA ” NÀY CÓ NHIỀU CÔNG DỤNG LẮM LẮM……VÀ CHỮ VIẾT HƠI BỊ SAI VÀ THIẾU NÉT……ĐIỂN HÌNH NHƯ: VIẾT TỪ PHẢI SANG TRÁI, TỪ TRÊN XUỐNG. DO ĐÓ, ” 9 CHỮA BÙA HIỆN TẠI ” NÀY, PHẢI VIẾT GIẬT NGƯỢC XUỐNG MỚI ĐÚNG, CHỨ VIẾT HÀNG NGANG LÀ SAI. / MỚI ĐÂY GẶP SƯ CÔ, NGHE CÔ NÓI CÔ TỪNG CẦM SÁCH CỔ ĐÃ PHIÊN DỊCH RA CHỮ VIỆT, CÔNG DỤNG ” 9 CHỮA BÙA ” NÀY RẤT NHIỀU, MỖI CHỮ MỖI Ý NGHĨA, VÀ CÓ THỂ GIẾT NGƯỜI ĐƯỢC; DO LÚC CẦM SÁCH LÚC NHỎ VÀ CHƯA XUẤT GIA, NÊN SƯ CÔ ĐÃ SỢ QUÁ VÀ TRẢ LẠI CHO VỊ THẦY ( VỊ THẦY Ở CHÙA MÀ CÔ TỪNG HỘ, VÌ NHỚ ĐẾN ƠN NGHĨA NÀY, NÊN THẦY ĐÃ TRAO SÁCH )., NAY THỜI GIAN ĐÃ LÂU, NÊN MỌI VIỆC KHÔNG CÒN NHƯ XƯA VÀ KHÔNG TÌM RA SÁCH NỮA. NHƯNG SƯ CÔ CHẮC CHẮN 1 ĐIỀU SÁCH VỀ CÔNG DỤNG ” 9 CHỮA BÙA ” NÀY, VẪN NẰM TRONG ” TÀNG KINH CÁC ” CỦA CÁC CHÙA……..NHƯNG KHÔNG PHẢI ” DỄ ĐỤNG ĐẾN “. ). TUY BỊ SAI, NHƯNG ” 9 CHỮA BÙA ” NÀY VẪN CÓ CÔNG DỤNG ĐẤY ! NHƯNG CHƯA PHÁT HUY HẾT UY LỰC VỐN CÓ CỦA BÙA !

VÀI ĐIỀU CHIA SẺ CÙNG CÁC BẠN
KÍNH CHÚC MỌI NGƯỜI LUÔN AN LẠC
NMBSTCMNP
Phổ Quảng
thân

P/S: Xin lỗi! chữ HOA, tôi không đọc được, và không hiểu nhiều hơn; vì trình độ có hạn. Kính mong, quý vị nào thông đạt thì hãy chia sẻ sự hiểu biết của quý vị, để cho mọi người được rõ hơn về vấn đề gút mắc này !!! Xin chân thành tri ân!

Lời kết

Trên đây là toàn bộ nội dung về 9 chữ bùa trong kinh cứu khổ. Nội Thất Smart mong rằng đã giải đáp được băn khoăn của bạn.

Nhiều người cũng quan tâm
36 chữ bùa Lỗ Ban linh nghiệm bí ẩn đã được tiết lộ
Bùa 5 Ông là gì? Cách luyện và hóa giải bùa Năm Ông Phật Lục Tổ Xiêm
Các giá hầu đồng: Thứ tự tên cách nhận biết trang phục lời văn xin lộc.

Nội Thất Smart (noithatsmart.com) chuyên cung cấp và chia sẻ kinh nghiệm chọn mua đồ nội thất thông minh tiện ích đa năng.